Thứ Sáu, 23 tháng 7, 2010
Thứ Năm, 22 tháng 7, 2010
Lịch sử Vĩnh Xuân quyền: Huyền thoại và Sự thật
Vịnh Xuân Quyền
Lịch sử và tên gọi của môn phái
Cho đến nay, những cứ liệu lịch sử chính xác về quá trình hình thành, phát triển của môn phái vẫn còn chìm trong mây mù của thời gian. Nhưng có một điểm hầu hết các thuyết đều thống nhất, đó là thời gian ra đời của môn phái nằm trong khoảng giai đoạn phong trào phản Thanh phục Minh ở Hoa lục, cách ngày nay trên dưới 200 năm, đang phát triển rầm rộ. Chi tiết hơn về niên đại, Vương Thái trong Sổ tay Võ thuật còn viết: "Võ phái Vịnh Xuân ra đời gần 2 thế kỷ, vào năm Gia Khánh đời Thanh (1810), thuộc Nam Phái Thiếu Lâm"[1].
Một số học thuyết về lịch sử môn phái đã nhấn mạnh vai trò sáng tổ của các nhân vật có liên quan đến phong trào khởi nghĩa dưới ngọn cờ khôi phục Minh triều thông qua việc chiết tự tên môn phái. Theo đó, chữ Xuân 春 được hiểu bao gồm 3 chữ Đại (大), Thiên (天) và Nhật (日) (ánh sáng bao la khắp gầm trời) ngầm ý chỉ nhà Minh (明), và chữ Vĩnh (永) với ý nghĩa mãi mãi, hoặc chữ Vịnh (詠) có ý nghĩa ca ngợi.
Một thuyết khác cho rằng tổ sư của môn phái võ Vĩnh Xuân quyền là Nghiêm Vịnh Xuân, con gái của Nghiêm Nhị, học trò của Ngũ Mai lão sư thái
Đặc điểm
Bàn về hệ thống kỹ thuật của Vịnh Xuân quyền, trên sự quan sát bề nổi của nhiều người, đó là cảm nhận về một hệ thống khá đơn giản với vài ba bài quyền, một bài côn, một bài đao và một bài mộc nhân thung. Thật hiếm có một võ phái nào khác chỉ dựa trên nền tảng một vài bài quyền và bài binh khí như vậy. Tuy nhiên, Vịnh Xuân quyền không nhấn mạnh vào tính hình thức và do đó rất khó khăn để trở thành một hệ thống để biểu diễn. Các bài quyền không phản ánh tính chất quy ước cho các chiêu thức, phân thế cụ thể từng chiêu tấn công hay phòng thủ (chẳng hạn như một số võ phái dạy đòn thế theo kiểu khi đối phương đấm thì ta đỡ thế nào và phản công ra sao), mà là những nguyên lý tấn công và phòng thủ rất cần sự sáng tạo của môn sinh khi ứng dụng thực chiến. Theo những võ sư Vịnh Xuân lão luyện, yếu lĩnh tự nhiên tính được đề cao hàng đầu, vì vậy những người cố gắng theo đuổi vẻ đe dọa bên ngoài của động tác sẽ không bao giờ phát triển được trong môn võ này. Kỹ thuật các dòng Vịnh Xuân quyền trên thế giới cho thấy tính chất "đại đồng tiểu dị" với những điểm giống nhau là căn bản, bao gồm trong nó những nguyên lý xuyên suốt khi luyện tập các bài quyền; khái niệm "xả kỷ tòng nhân" (quên mình theo người), "thính kình" (nghe lực), "tâm ứng thủ” (khi đầu óc nghĩ đến một đòn đánh là chân tay thực hiện thành công); hệ thống đòn chân không có đá xoay người hay đá bay; hệ thống thủ pháp nhu nhuyễn nhưng nhanh và mạnh như roi quất; tấn pháp kiềm dương mã tự, xước mã (đạp bộ); công phu niêm thủ, niêm cước, trao đổi thân, niêm côn và đao; và các bài luyện tập trên mộc nhân thung.
Quyền pháp
Hệ thống quyền của môn phái theo truyền thống khá đơn giản với ba bài quyền ứng với trình độ môn sinh từ sơ cấp, trung cấp đến cao cấp gồm: Tiểu Niệm Đầu, Tầm kiều và Tiêu chỉ. Khác với chi phái tại Hồng Kông, tại Quảng Đông bài Tiêu chỉ được dạy trước bài Tầm kiều. Nhiều dòng phái Vịnh Xuân hiện nay có chương trình quyền pháp khá khác biệt, với những bài như Thập nhị thức, hệ thống Ngũ hình quyền, Vĩnh xuân quyền (bài quyền), Khí công quyền (còn gọi là Vịnh xuân khí công, Bối khí quy chi), Hạc hình thủ bộ, Tiểu mai hoa, Đại mai hoa v.v. và có thể không có hai bài Tầm kiều, Tiêu chỉ. Tuy nhiên, những bài tập rời với những nguyên lý, kỹ pháp của Tầm kiều, Tiêu chỉ vẫn được truyền dạy như cơ bản công và cơ bản kỹ thuật trong suốt những năm tháng môn sinh đến với Vịnh Xuân quyền. Theo Đại sư Nam Anh trên quan điểm của Vịnh Xuân quyền Việt Nam, ba bài tập thịnh hành trong hệ Vịnh Xuân quyền Hồng Kông hiện nay (ý nói Tiểu Niệm Đầu, Tầm Kiều và Tiêu chỉ) thực chất không thể coi là các bài quyền, mà là ba giai đoạn trong tiến trình luyện tập của môn sinh [2].
Tiểu Niệm Đầu
Khác với các võ phái dựa trên cơ sở căn bản là phải luyện tập vững vàng mã bộ (tấn pháp) và ngoại lực trước khi bắt đầu được truyền dạy những bài quyền đầu tiên, ngay từ những ngày đầu nhập môn Vịnh Xuân quyền, môn đồ đã được truyền dạy Tiểu niệm đầu. Bài quyền này (còn có những tên gọi khác như Tiểu luyện đầu, Tiểu hình ý, Tam bái phật), là căn bản để môn sinh thành thạo những thủ pháp đặc trưng của Vịnh Xuân như than thủ, bàng thủ, cổn thủ, nhật tự xung quyền, khuyên thủ, tán thủ, phục thủ, phách thủ, đấm tam tinh v.v. trên một tấn pháp duy nhất từ đầu đến cuối bài là Kiềm dương mã tự, hay nhị tự kiềm dương mã áp dụng ở tư thế chính diện, chính thân, nên còn được gọi là chính thân nhị tự kiềm dương mã. Việc làm quen tấn pháp này với sự kết hợp thủ pháp (các chiêu thức của bài đều xuất phát từ trung tuyến), cho phép môn sinh rút ngắn được thời gian luyện tập bởi ngay từ những ngày đầu đến với môn phái đã được rèn luyện không chỉ mã bộ mà cả các chiêu thức nền tảng.
Thứ Bảy, 17 tháng 7, 2010
Võ Vịnh Xuân quyền
Theo võ sư Nhâm, VXQ hình thành vào thời Ung Chính - Càn Long (Nhà Thanh, Trung Quốc), do ngũ Tổ đại sư (Ngũ Mai, Chí Thiện thiền sư, Miêu Hiển, Bạch My đạo nhân và Phùng Đạo Đức) sáng lập. Môn võ này nổi tiếng với công phu nội gia nhu quyền có hiệu quả đặc biệt trong rèn luyện sức khoẻ, cũng như bản lĩnh chiến đấu, rất phù hợp với phụ nữ theo tinh thần "dĩ nhu chế cương" (dùng yếu chế mạnh). Qua thực tế, Vịnh Xuân công phu được giới võ thuật thế giới đánh giá rất cao, võ đường được mở khắp châu Á, Âu, Mỹ…
VXQ du nhập vào nước ta từ những năm đầu thế kỷ 20 do võ sư Nguyễn Tế Công (SN 1877), người gốc Tân Hội-Quảng Đông sang truyền dạy. Lúc đầu ông chỉ dạy cho người Hoa, sau cho cả người Việt. Như duyên trời định, các học trò Việt Nam chăm chỉ tập luyện nên lĩnh hội đủ tinh hoa võ thuật của Sư tổ. Có lần võ sư Tế Công phải thốt lên: “Vịnh Xuân sang Việt Nam mất rồi”. Những môn sinh của cụ Tế Công được nhiều người biết tiếng: Việt Hương, Trần Văn Phùng, Trần Thúc Tiển, Vũ Quý và Ngô Sỹ Quý. Giờ đây, các võ sư này đã khuất núi nhưng vẫn để lại nhiều thế hệ học trò.
Cố Sư tổ Vịnh Xuân Việt Nam Nguyễn Tế Côngvà các môn đệ của người (Võ sư Trần Thúc Tiển - hàng đầu, bên trái) . |
Vịnh Xuân căn bản gồm các bài tiểu niệm đầu, công di chuyển (mã) bát môn, bát pháp, 108 đối luyện, ngũ hình quyền (long, xà, hổ, hạc, báo, ngũ hình tổng hợp), tầm kiều, tiêu chỉ, linh giác, đấu tự do, túy đả… Binh khí gồm: Bát trảm đao, lục điểm bát côn, liễu diệp kiếm. Nội công dưỡng sinh thì bao gồm: Phật gia khí công quyền (vận khí), tĩnh tọa (tọa thiền), nội dưỡng công, cường tráng công (điều hòa kinh mạch, khí huyết dựa trên nguyên lý thần dẫn khí, khí dẫn huyết…), thiết bối sam... Những bài tập này, ngoài luyện võ thuật nâng cao sức khỏe, còn có tác dụng chữa được nhiều bệnh mãn tính (hen, phổi, dạ dày, xoang…).
Người Trung Quốc có danh ngôn: Đả quyền bất luyện công, đáo lão nhất trường không (tập võ mà không luyện công, đến già chỉ còn con số không). VXQ ngoài những bài quyền, đòn đánh còn có phần quan trọng là nội công. Môn sinh VXQ nội công thâm hậu, có sức chịu đòn ghê gớm. Lúc sinh thời dù ở tuổi 80, khi tập luyện, sư tổ Nguyễn Tế Công vẫn để học trò xuất đòn hết sức bằng chưởng, quyền, cạnh tay, khuỷu tay vào người trong suốt 4-5 giờ liền. Sư tổ vừa dạy vừa nói chuyện như không có gì xảy ra. Tiếp bước thầy, võ sư Thúc Tiển coi nội công là cách tập cơ bản, nền tảng của VXQ. Đến nay võ sư Nguyễn Mạnh Nhâm khi dạy học trò vẫn duy trì cách tập trên. Kiểu tập luyện độc đáo này chỉ có ở Việt Nam, chưa thấy xuất hiện ở các chi phái nước ngoài (kể cả Trung Quốc).
Võ sư Trần Thúc Tiễn - học trò của sư tổ Nguyễn Tế Công |
Từ số ít người tập nhỏ lẻ, ở nước ta hiện nay người tham gia tập VXQ ngày càng đông chủ yếu là giới trí thức (60-70%), võ đường mọc lên khắp nơi. Tiến tới thành lập "Hội võ thuật Vịnh Xuân Việt Nam", đưa VXQ Việt Nam hội nhập với võ học thế giới là mong muốn của nhiều người yêu mến môn võ thuật độc đáo này.